Từ cuối thế kỷ 14, ta thấy phát triển loại men, loại hoa văn vô cùng độc đáo, rất cao cả về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Ðó là thời kỳ tột đỉnh của đồ gốm Việt Nam, loại đồ gốm ngày nay được biết dưới tên “Ðồ gốm Chu Ðậu”. Tiếc thay, nền kỹ thuật và mỹ thuật này đã tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, sau những trận chiến dữ dội thời Lê Mạc.
Ðồ gốm Chu Ðậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Gốm Chu Ðậu chỉ được biết đến và tìm hiểu từ khi ông Makato Anabuki (thuộc tòa đại sứ Nhật Bản ở Hà Nội) nhìn thấy một bình cao cổ men trắng xanh, hoa văn cánh sen và hoa mẫu đơn, với câu “Thái Hoà bát niên. Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị hý bút” (nghĩa là: ở phủ Nam Sách, năm Thái Hòa thứ tám, bà họa sĩ họ Bùi vẽ chơi), ở viện bảo tàng Topkapi Saray Museum (Istanbul, Turkey).
Ðịa danh Nam Sách Châu cho ta biết nơi chế tạo (phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương), và chữ Thái Hòa bát niên cho ta biết năm chế tạo (1450 năm Thái Hòa thứ tám, đời vua Lê Nhân Tông). Từ đây những nhà khảo cổ mới hướng về phủ Nam Sách, rồi năm 1983 ở làng Chu Ðậu, dưới vườn nhà một nông dân là ông Vang, người ta đào được các di tích lò gốm. Việc tìm kiếm, khai quật bắt đầu. Người ta tìm thấy cả một nền đồ gốm rực rỡ, thịnh vượng kéo dài 3, 4 thế kỷ. Những khai quật này đưa đến trung tâm của nền nghệ thuật này: Phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ở đây, ngoài làng Chu Ðậu, còn có các lò gốm khác ở làng Vạn Yên, làng Gốm, làng Ngói, làng Phú Ðiền, làng Phúc Lão, làng Cậy…. Ðồ gốm Chu Ðậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường, và nhiều nhất là dưới các tàu buôn chìm ngoài khơi Hội An, Ðà Nẵng… Từ đây người ta ít gọi các món đồ này là đồ men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu chàm – màu xanh lơ) mà gọi bằng tên đồ gốm Chu Ðậu, bởi đây là nơi di tích các lò gốm cổ sản xuất loại đồ gốm này được khám phá ra trước nhất. Những khai quật trong năm 1986, 1987, 1989, 1991, 1992 và 1993, cho thấy đồ gốm Chu Ðậu được sản xuất ở rất nhiều nơi gần bờ sông trong tỉnh Hải Dương, tập trung nhiều nhất ở phủ Nam Sách. Công lớn về những khám phá này là của ông Tăng Bá Hoành, giám đốc viện bảo tàng Hải Dương, người đã nghiên cứu, gìn giữ và viết rất kỹ lưỡng về đồ gốm Chu Ðậu tìm được trong các cuộc khai quật này.
Ðồ gốm Chu Ðậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt Nam. Ðồ gốm Chu Ðậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men (nồi đất, chum, vại…) cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bây giờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên (chuyên làm nồi đất không men).
Làng Chu Ðậu từ lâu nổi tiếng về nghề dệt chiếu. Trước đây, ở ngoài Bắc, khi trong nhà có người lấy vợ, người khá tiền thường mua một vài cặp “chiếu Ðậu” để cho cô dâu chú rể dùng. Dân làng bây giờ chỉ còn biết làm ruộng và dệt chiếu, họ không biết làm đồ gốm nữa và cũng không ngờ rằng ông cha họ đã từng làm những món đồ gốm tinh xảo, tuyệt mỹ. Các lò gốm ngày xưa nay đã nằm sâu dưới ruộng nương, vườn tược. Một địa danh trong làng là “Ðống Lò”, nhưng dân làng không biết là lò gì. Từ đầu thế kỷ 17, nghề làm đồ gốm ở đây tự nhiên mất tích, không còn lò gốm, không còn người làm đồ gốm. Dấu vết chìm sâu dưới lòng đất, biến hẳn trong ký ức dân làng!
Bao quanh bởi nhiều con sông lớn, người dân làng Chu Ðậu có những phương tiện giao thông tiện lợi. Họ có thể chuyển đồ lên Thăng Long, ra Phố Hiến, Vân Ðồn để bán trong nước, để xuất cảng ra nước ngoài. Họ có thể chuyên chở đất sét mịn mua từ Hố Lao (Ðông Triều, Quảng Yên) chỉ cách đó 30km một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thành công về thương mãi, họ có cơ hội, có phương tiện, có động cơ phát huy nghệ thuật và kỹ thuật rất cao. Tiếc thay, thời cuộc đã hủy diệt mất một nền kỹ thuật và mỹ thuật giá trị của dân ta.